Cấu trúc vốn tối ưu luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Các lý thuyết về cấu trúc vốn là một trong những lý thuyết tao nhã và phức tạp nhất trong lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên, các ứng dụng thực tế của lý thuyết này lại ít được thỏa mãn hơn. Không có một công thức chính xác nào giúp đánh giá tỷ lệ tối ưu nợ trên vốn cổ phần. Do vậy, chúng ta cần chuyển sang xem xét các bằng chứng về lựa chọn cấu trúc vốn từ thế giới thực.
Các quy tắc thực nghiệm sau đây là rất có giá trị khi một công ty xem xét để xây dựng chính sách cấu trúc vốn cho mình.
Các quy tắc thực nghiệm sau đây là rất có giá trị khi một công ty xem xét để xây dựng chính sách cấu trúc vốn cho mình.
1) Hầu hết các tổ chức phi tài chính có tỷ số nợ - tổng tài sản thấp
Chi phí tiền lãi từ vay nợ như là một tấm chắn thuế thu nhập của doanh nghiệp, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như là một động lực chính cho các công ty điều chỉnh mức độ vay nợ.
Tuy nhiên, trên thực tế các công ty không phát hành nợ/ vay nợ đạt đến điểm mà tại đó tấm chắn thuế phát huy tác dụng hoàn toàn.
Điều này xuất phát từ sự cảnh báo của các rủi ro tính thanh khoản dẫn đến sự hiện diện của các chi phí kiệt quệ tài chính. Do đó, có một giới hạn về tỷ lệ nợ mà một công ty trên thực tế có thể vay nợ.
2) Một số công ty thì không sử dụng nợ
Các công ty này không thích tận dụng bất kỳ loại nợ dài hạn nào và chỉ sử dụng rất ít nợ ngắn hạn; bao gồm các công ty có người quản lý đang nắm giữ hay sở hữu tỷ lệ vốn cổ phần ở mức cao, có các nhân tố liên quan đến yếu tố gia đình nhiều hơn hẳn.
Các nhà quản lý tại các công ty chỉ sử dụng vốn chủ sở hữu hiểu rằng họ đã dồn đầu tư phần lớn vốn của mình vào chính công ty mà họ đang quản lý và vì số vốn này có thể xem là ít được đa dạng hóa so với các nhà quản lý tại các công ty tương tự nhưng có có sử dụng cả vốn cổ phần và nợ. Và bởi vì, đòn bẩy nợ đại diện cho rủi ro thêm vào mà nhà quản lý tại các công ty chỉ sử dụng vốn cổ phần không mốn chấp nhận.
Các nhà quản lý tại các công ty chỉ sử dụng vốn chủ sở hữu hiểu rằng họ đã dồn đầu tư phần lớn vốn của mình vào chính công ty mà họ đang quản lý và vì số vốn này có thể xem là ít được đa dạng hóa so với các nhà quản lý tại các công ty tương tự nhưng có có sử dụng cả vốn cổ phần và nợ. Và bởi vì, đòn bẩy nợ đại diện cho rủi ro thêm vào mà nhà quản lý tại các công ty chỉ sử dụng vốn cổ phần không mốn chấp nhận.
3) Có sự khác biệt trong cấu trúc vốn giữa các ngành khác nhau
Có sự khác nhau đáng kể trong tỷ lệ nợ giữa các ngành và sự khác biệt này vẫn tồn tại theo thời gian. Tỷ lệ nợ có xu hướng khá thấp trong các ngành có có mức tăng trưởng cao với các cơ hội đầu tư đa dạng trong tương lai, chẳng hạn như ngành dược phẩm và thiết bị điện tử.
Các ngành có vốn đầu tư lớn vào tài sản hữu hình thường có xu hướng có tỷ lệ đòn bẩy cao, như ngành xây dựng.
Các ngành có vốn đầu tư lớn vào tài sản hữu hình thường có xu hướng có tỷ lệ đòn bẩy cao, như ngành xây dựng.
4) Hầu hết các công ty sử dụng tỷ lệ nợ - vốn chủ sở hữu mục tiêu
Đại đa số công ty có sử dụng tỷ lệ mục tiêu, mặc dù mức độ chặt chẽ trong theo đuổi cấu trúc vốn mục tiêu là khác nhau giữa các công ty. Các công ty lớn có khuy hướng sử dụng tỷ lệ nợ mục tiêu nhiều hơn các công ty nhỏ.
Không có bất kỳ công thức toán học để thiết lập tỷ lệ nợ- vốn cổ phần mục tiêu. Các công ty nên thiết lập tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần mục tiêu cân nhắc trên 3 yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ này.
(1) Thuế
Với mục đích tiết kiệm thuế thu nhập phải nộp nên các công ty có thể khấu trừ lãi vay khỏi thu nhập chịu thuế đến một mức độ nào đó, tối đa là đến mức bằng thu nhập trước lãi vay.
Do đó, các công ty có lợi nhuận càng cao càng có nhiều khả năng có tỷ lệ nợ mục tiêu lớn hơn so với công ty có ít lợi nhuận.
Do đó, các công ty có lợi nhuận càng cao càng có nhiều khả năng có tỷ lệ nợ mục tiêu lớn hơn so với công ty có ít lợi nhuận.
(2) Loại tài sản
Chi phí kiệt quệ tài chính là tốn kém dù có hay không các loại thủ tục phá sản chính thức.
Các chi phí kiệt quệ tài chính phụ thuộc vào loại tài sản công ty đang sở hữu, tài sản hữu hình hay tài sản vô hình (đầu tư vào nghiên cứu, phát triển).
Những công ty đầu tư nhiều vào tài sản hữu hình có thể có tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần mục tiêu cao hơn so với công ty có nhiều vốn đầu tư vào nghiên cứu và phát triển.
Các chi phí kiệt quệ tài chính phụ thuộc vào loại tài sản công ty đang sở hữu, tài sản hữu hình hay tài sản vô hình (đầu tư vào nghiên cứu, phát triển).
Những công ty đầu tư nhiều vào tài sản hữu hình có thể có tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần mục tiêu cao hơn so với công ty có nhiều vốn đầu tư vào nghiên cứu và phát triển.
(3) Sự không chắc chắn của thu nhập hoạt động
Những công ty có thu nhập hoạt động không ổn định hay không chắc chắn sẽ có xác suất xảy ra kiệt quệ tài chính cao hơn, ngay cả khi những công ty này không có vay nợ. Những công ty này chủ yếu tài trợ chủ yếu bằng vốn cổ phần, hạn chế tối đa việc vay nợ. Ngành sử dụng nhiều nợ: các ngành tiện ích có độ biến động lợi nhuận thấp…
5) Cấu trúc vốn của các công ty riêng lẻ có thể thay đổi đáng kể theo thời gian
Hầu hết các công ty đều sử dụng tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu; Tuy nhiên, cấu trúc vốn của công ty riêng lẻ thường thay đổi rất lớn theo thời gian.
Biến đổi lớn trong đòn bẩy tài chính của từng công ty theo thời gian là bằng chứng cho thấy sự khác nhau trong các cơ hội đầu tư của các công ty riêng lẻ và nhu cầu tài trợ là yếu tố quyết định quan trọng trong xác lập cấu trúc vốn và sự quan trọng của sự thừa thải tài chính, một công ty sẽ tìm cách vay mượn tiền khi có cơ hội đầu tư đáng giá.
Một lưu ý cuối cùng.
Vì không có công thức nào hỗ trợ cho những nhận định trên, nên chúng có vẻ quá mơ hồ trong việc trợ giúp các công ty đưa ra các quyết định tài trợ.
Thay vào đó, nhiều công ty trong thực tế khi đưa ra quyết định cấu trúc vốn của mình chỉ đơn giản là dựa vào mức trung bình ngành và sự cần thiết cho việc tích lũy một số tiền mặt nào đó (financial slack).
Thông tin tiếp cận này có thể chưa phải là điều các đối tượng quan tâm đang tìm kiếm để xây dựng chính xác cấu trúc vốn tối ưu cho một doanh nghiệp; tuy nhiên, ít nhất nó cũng giúp các công ty tránh sai lệch nhiều so với thực tiễn đã được tiến hành và chấp nhận.
Sau cùng, các công ty còn lại trong ngành là những công ty thành công vì họ đã sống sót và không bị đào thải. Vì vậy, ít nhất chúng ta cũng nên lưu tâm đến các quyết định, cấu trúc vốn của họ trong thực tế.
Bài viết khác
- NHÂN SỰ & TỔ CHỨC- TUYỂN DỤNG NHÂN SỰ: PHỎNG VẤN HIỆU QUẢ
- QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH- HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
- KẾ TOÁN- SO SÁNH KẾ TOÁN TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
- KSNB- KIỂM SOÁT NỘI BỘ LÀ GÌ?
- KSNB– KIỂM SOÁT CHU TRÌNH BÁN HÀNG & THU TIỀN: SAI PHẠM & MỤC TIÊU KIỂM SOÁT (Phần 1)
- MARKETING & BÁN HÀNG- CÁC QUY LUẬT KINH DOANH
- QUẢN TRỊ- LẬP DỰ TOÁN NGÂN SÁCH: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI